Đánh giá tác động môi trường
(ĐTM) là phương thức của một quá trình được sử dụng để dự đoán hệ quả về môi
trường (tích cực hoặc tiêu cực) của một kế hoạch, một chính sách, một chương
trình hoặc dự án trước khi ra quyết định thực hiện, đồng thời đề xuất các biện
pháp để điều chỉnh tác động đến mức độ có thể được chấp nhận (mức độ do chính
quyền quy định thông qua các quy chuẩn kỹ thuật) hoặc để khảo sát các giải pháp
kỹ thuật mới. Mặc dù một đánh giá có thể dẫn đến các quyết định kinh tế khó
khăn và những mối quan tâm về chính trị, xã hội nhưng đánh giá tác động môi trường
là một công việc cần thiết để bảo vệ môi trường, bằng cách cung cấp một nền tảng
vững chắc cho sự phát triển bền vững.
Mục đích của việc đánh giá
là để đảm bảo rằng các nhà sản xuất ra quyết định xem xét các tác động môi trường
trước khi quyết định có hay không để tiến hành một dự án. Hiệp hội quốc tế về
đánh giá tác động (IAIA) định nghĩa đánh giá tác động môi trường là "quá trình xác định, dự đoán, đánh giá và giảm
thiểu những tác động liên quan sinh học, xã hội, và các yếu tố khác của các đề
án phát triển trước khi những quyết định chính được thực hiện và cam kết được
đưa ra ". Những sự đánh giá tác động môi trường đặc biệt ở chỗ chúng
không yêu cầu sự tuân thủ các một kết quả môi trường được định trước, mà
yêu cầu các nhà hoạch định ra quyết định cân nhắc, tính toán đến các giá trị
môi trường trong các quyết định của họ và để chứng minh những quyết định trong
bối cảnh nghiên cứu một môi trường cụ thể và những ý kiến công chúng về các
tác động tiềm ẩn của môi trường.
Lịch sử
Đánh giá tác động môi trường
đã bắt đầu vào những năm 1960, như một phần của nâng cao nhận thức môi trường.
Báo cáo đánh giá tác động môi trường (báo cáo ĐTM) liên quan đến một đánh giá kỹ
thuật nhằm mục đích góp phần vào việc ra quyết định một cách khách quan hơn.
Tại Hoa Kỳ, đánh giá tác động
môi trường được định hình chính thức từ những năm 1969, với việc ban hành Đạo
luật Chính sách môi trường quốc gia. Những báo cáo ĐTM đã được sử dụng ngày
càng trên thế giới. Số lượng của các "Đánh giá môi trường" đệ trình
hàng năm đã vượt qua rất nhiều so với số lượng của các báo cáo đánh giá tác động
môi trường toàn diện vốn yêu cầu khắt khe hơn (cần hiểu rõ: Đánh giá một môi
trường là một phần nhỏ của báo cáo đánh giá tác động môi trường toàn diện, được
thiết kế để cung cấp đủ thông tin cho phép cơ quan ra quyết định xem việc chuẩn
bị một Báo cáo tác động môi trường toàn diện (EIS) là cần thiết và là một hoạt
động thực hiện để tìm hiểu tác động mà đã được thực hiện trước khi sự phát triển
sẽ xảy ra.
Các phương pháp
Phương pháp đánh giá cụ thể
nói chung và ngành công nghiệp có sẵn bao gồm:
Sản phẩm công nghiệp - Phân
tích vòng đời môi trường của sản phẩm (LCA): được sử dụng để xác định và đánh
giá tác động của các sản phẩm công nghiệp đối với môi trường. Những EIA xem xét
các hoạt động liên quan đến khai thác nguyên liệu, phụ liệu, thiết bị, sản xuất,
sử dụng, xử lý và thiết bị phụ trợ.
Logic mờ (được phát triển từ
lý thuyết tập mờ để thực hiện lập luận một cách xấp xỉ thay vì lập luận chính
xác theo lôgic vị từ cổ điển. Lôgic mờ có thể được coi là mặt ứng dụng của lý
thuyết tập mờ để xử lý các giá trị trong thế giới thực cho các bài toán phức tạp
(Klir 1997): Phương pháp ĐTM cần dữ liệu đo lường để ước tính giá trị của chỉ số
tác động Tuy nhiên rất nhiều các tác động môi trường không thể được định lượng,
ví dụ như chất lượng cảnh quan, chất lượng cuộc sống và xã hội chấp nhận Thay
vào đó thông tin từ EIA tương tự, chuyên gia đánh giá và tình cảm cộng đồng được
sử dụng xấp xỉ phương pháp luận được gọi là logic mờ có thể được sử dụng.
Cây biến đổi gen -. Phương
pháp cụ thể có sẵn để thực hiện EIA của các sinh vật biến đổi gen bao gồm
GMP-RAM và INOVA
Ở cuối của dự án, kiểm toán
đánh giá độ chính xác của EIA bằng cách so sánh thực tế để tác động dự đoán tác
động.
Mục tiêu là làm cho EIA
tương lai hợp lệ và hiệu quả hơn. Hai cân nhắc chính là:
Khoa học - để kiểm tra tính
chính xác của các dự đoán và giải thích sai sót.
Quản lý - để đánh giá sự
thành công của _ trong việc giảm tác động.
Kiểm toán có thể được thực
hiện hoặc như là một đánh giá khắt khe của giả thuyết hoặc với một cách tiếp cận
đơn giản so sánh những gì thực sự xảy ra đối với những dự đoán trong tài liệu
EIA.
Sau EIA, các nguyên tắc
phòng ngừa và gây ô nhiễm phải trả có thể được áp dụng để quyết định có bác bỏ,
sửa đổi hoặc yêu cầu trách nhiệm nghiêm ngặt hoặc bảo hiểm cho một dự án, dựa
trên tác hại dự đoán tác động.
Theo Jay et al., EIA được sử
dụng như một công cụ trợ giúp quyết định chứ không phải ra quyết định công cụ.
Có sự bất đồng ngày càng tăng về chúng như ảnh hưởng của chúng trên các quyết định
bị hạn chế.
Đào tạo nâng cao cho các học
viên, hướng dẫn thực hành tốt nhất và nghiên cứu tiếp tục đều đã được đề xuất.
Báo cáo ĐTM đã bị chỉ trích
vì quá giới hạn phạm vi của mình trong không gian và thời gian. Không có thủ tục
được chấp nhận tồn tại để xác định ranh giới như vậy.
Ranh giới này được xác định
bởi người nộp đơn và giám định viên chính, nhưng trong thực tế, hầu hết các Báo
cáo ĐTM chỉ tác động trực tiếp và ngay lập tức trên khu vực chịu ảnh hưởng.
Phát triển gây tác động cả
trực tiếp và gián tiếp. Tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ, sản xuất, sử dụng và xử
lý vật liệu xây dựng, máy móc, sử dụng đất bổ sung cho hoạt động sản xuất và dịch
vụ, khai thác và tinh chế, vv, tất cả đều có tác động môi trường. Các tác động
gián tiếp của sự phát triển có thể cao hơn nhiều so với tác động trực tiếp kiểm
tra bởi một EIA. Đề xuất như sân bay hoặc nhà máy đóng tàu gây ra trên phạm vi
rộng tác động nước và quốc tế, cần được đề cập trong Báo cáo ĐTM.
Mở rộng phạm vi của EIA có
thể có lợi cho bảo tồn các loài bị đe dọa. Thay vì tập trung vào khu vực dự án,
một số Báo cáo ĐTM sử dụng một cách tiếp cận môi trường sống dựa trên tập trung
vào mối quan hệ rộng hơn nhiều giữa con người và môi trường. Kết quả là, lựa chọn
thay thế để giảm thiểu tác động tiêu cực đến dân số của toàn bộ loài, chứ không
phải là tiểu quần thể địa phương, có thể được đánh giá.