Cán bộ môi trường lấy mẫu nước sông.
Nhưng điều đáng lo ngại là nguồn nước này đang phải đối mặt với nhiều thách
thức, nhất là tình trạng suy kiệt và ô nhiễm trên diện rộng.
Hiện nay, hầu hết các sông chính như sông Hồng (tại Hà Nội), sông Cấm (tại Hải
Phòng), sông Lam (tại Nghệ An), sông Hương (tại Huế), sông Hàn (tại Đà Nẵng),
sông Sài Gòn (tại TP Hồ chí Minh), sông Tiền (tại Tiền Giang), sông Hậu (tại
Cần Thơ) đều có nồng độ ô nhiễm vượt quá qui chuẩn cho phép từ 1,5 đến 3 lần. Ô
nhiễm nghiêm trọng nhất đang diễn ra tại hạ lưu sông Cầu, sông Nhuệ - sông Đáy
và hệ thống sông Đồng Nai. Hầu hết tại các sông, hồ, kênh rạch trong nội thành,
nội thị, ô nhiễm hữu cơ đều vượt giới hạn tối đa cho phép đối với nguồn nước
loại B từ 2 đến 6 lần. Nước ven biển nước ta cũng đang trong xu hướng gia tăng
ô nhiễm; hàm lượng dầu mỡ trong nước ven biển Cửa Lục, gần cầu Bãi Cháy (Quảng
Ninh) và ven biển miền Trung ở mức báo động...
“Thủ phạm” gây ô nhiễm các lưu vực sông là các hoạt động nông nghiệp, công
nghiệp, làng nghề, khai thác, chế biến và nuôi trồng thủy sản cũng như nước
thải sinh hoạt thành phố. Nước thải trong sản xuất, sinh hoạt không qua xử lý
đổ ra hệ thống sông ngòi, gây ô nhiễm nghiêm trọng. Điều đáng nói là đa số
những vụ xả thải nghiêm trọng thường chỉ được phát hiện khi hậu quả đã quá nặng
nề.
Để có thể ngăn ngừa ô nhiễm cho các lưu vực sông, đồng thời giảm thiểu nguồn
thải gây ô nhiễm, cần phải kiểm soát được chất lượng nước thông qua hệ thống
quan trắc.
Trong thời gian qua, các cơ quan nhà nước đã triển khai nhiều chương trình quan
trắc, đặc biệt chú ý đến các điểm quan trắc chất lượng nước mặt lục địa, nước
ngầm và nước biển ven bờ, xa bờ. Các chương trình quan trắc tại các lưu vực
sông Cầu, sông Nhuệ - sông Đáy, sông Đồng Nai, sông Mã, sông Tiền, sông Hậu...
cũng được triển khai
Bộ Tài nguyên và Môi trường đã xây dựng, ban hành nhiều quy chuẩn kỹ thuật quốc
gia về quản lý chất lượng nước mặt, nước ngầm, nước biển ven bờ, nước thải sinh
hoạt, nước thải công nghiệp...
Các địa phương cũng đã thực hiện chương trình quan trắc môi trường nước trên
địa bàn tỉnh quản lý, bao gồm sông, suối, ao, hồ, nước dưới đất và nước biển.
Nhiều tỉnh tổ chức triển khai các chương trình nước tần suất từ 2 đến 4 lần mỗi
năm.
Tuy nhiên, cho đến nay, mạng lưới quan trắc môi trường nước vẫn còn hạn
chế. Cả nước hiện chỉ có 4 trạm quan trắc và phân tích môi trường nước mặt lục
địa, 3 trạm quan trắc phóng xạ trong nước với tổng số 287 điểm quan trắc tại 18
tỉnh, thành phố, tần suất 4 - 6 lần trong năm. Có 5 trạm quan trắc và phân tích
môi trường nước biển với 132 điểm quan trắc và tần suất 4 lần trong năm. So với
mạng lưới sông ngòi dày đặc ở nước ta, số lượng và tần suất quan trắc như vậy
quá ít. Số lượng trạm quan trắc hiện tại lại không đủ khả năng kiểm soát chất lượng
nước mặt trên phạm vi cả nước, còn cách quá xa so với mục tiêu phát triển mạng
lưới quan trắc môi trường tác động đến năm 2020 theo Quyết định 16 của Thủ
tướng Chính phủ ban hành năm 2007. Theo tinh thần sửa đổi của quyết định này,
đến năm 2020, cả nước sẽ có 42 trạm quan trắc môi trường quốc gia bán tự động.
Trong đó tập trung đầu tư tăng cường số lượng các trạm, điểm, thông số, tần
suất quan trắc môi trường nước tại 14 lưu vực sông chính (sông Thu Bồn, sông
Ba, sông Mê Kông, sông Hồng - sông Thái Bình, sông Trà Khúc, sông Sê –San, sông
Sre Pok, sông Nhuệ - sông Đáy, sông Cầu, sông Mã - sông Chu, sông Kỳ Cùng -
sông Bằng Giang, sông Cả - sông La, sông Hương). Đầu tư xây dựng mới các trạm,
điểm quan trắc tại 10 hồ lớn (Ba Bể, Trị An, Thác Bà, Hòa Bình...) và tăng
cường về số lượng trạm, điểm quan trắc nước biển ven bờ, nước sông ven bờ.
Từ nay tới năm 2020 là khoảng thời gian không dài, trong khi việc triển khai
xây dựng các trạm quan trắc chất lượng nước hiện đang rất chậm chạp, khiến mối
quan ngại về nguy cơ ô nhiễm nguồn nước mặt lục địa, ven biển và xa bờ đang
ngày một bức xúc.